Những vị thuốc có thể khư ( trừ) phong thăng thấp, đều gọi là thuốc trừ phong thấp.
Nguyên nhân gây nên phong thấp là do thủy thấp từ ngoài xâm nhập lại cảm phong tà, hoặc ngoại cảm phong tà kèm theo thấp cùng giao tranh.
Chứng minh trên lâm sàng của phong thấp có rất nhiều, như khớp xương đau nhức, tê dại, mình nặng và đầu nặng gáy cứng, sốt rét sốt nóng đau mình thuộc ngoại cảm đều là dạng phong thấp.
Trong điều trị thì tùy chứng mà đề ra phương pháp cụ thể, phối ngữ sử dụng với những vị thuốc khác. Như phong thấp ở cơ biểu (thì dùng thuốc khư phong thăng thấp. Phong thấp ở kinh lạc thì phải dùng thuốc thấm thấp thông lợi.
Nói chung thuốc trừ phong thấp tính vị đều tương đối ráo nóng, người âm hư huyết hư nên thận trọng khi sử dụng.
Những vị thuốc nói trên tuy đều là thuốc trừ phong thấp, song trên ứng dụng thực tế mỗi vị đều có đặc điểm của nó.
Phòng phong tính hoãn, hay về trừ phong toàn thân, mà lại kiêm hỗ trợ Hoàng kỳ để bổ chính khí. Khương hoạt tính mạnh, chuyên công phạt phong tà, hay về khu phong ở từng chỗ (cục bộ), Hai vị hoạt: Khương hoạt, Độc hoạt, ngày xưa không phân biệt, nhưng thực tế là hai loại của một giống, Khương hoạt đi lên thượng tiêu mà chữa ở trên, thẳng tới đỉnh đầu, có thể giải trừ được nhức đầu do du phong, đau khớp xương do phong thấp. Độc hoạt đi xuống hạ tiêu mà chữa ở dưới, sơ thông và dẫn tới ngang lưng, đầu gối, rồi đi xuống đùi và chân, cho nên chữa được phong tà ẩn phục thấp tý ở lưng và chân. Tần giao cũng thuộc loại thuốc trừ thấp thông lạc, thiên về chữa đau nhức nửa người phần dưới, công hiệu giống như Độc hoạt. Bạch Truật, Thương truật, đều có thể táo thấp, Bạch truật thì ngọt ôn tính hoãn, công hiệu kiện tỳ lớn, bổ nhiều hơn tán. Thương truật đắng ôn tính nóng có đủ sức táo thấp, tán nhiều hơn bổ. Bạch chỉ, Mạn kinh tử đều có thể tận phong chỉ thống, (khỏi đau). Song Bạch chỉ thiên về chữa đau chỗ xương lông mày, Mạn kinh tử thiên về chữa đau ở thái dương. Bạch hoa xà có công tuyên thông phong thấp, trừ giải phong độc.