Những vị thuốc thuốc bổ âm có tác dụng dưỡng âm thanh nhiệt, tư âm nhuận táo. Chủ yếu dùng để chữa các chứng chân âm của thận (thận âm) bị hư tổn, âm hư hỏa vượng, miệng khô cổ (họng) ráo, phát nhiệt ra mồ hôi trộm, ho lâu, ho ra máu, lưng đau, chân bủn rủn, di tinh, ra khí hư. Căn cứ vào bộ phận và vị trí thuộc âm hư và mức độ khác nhau, cho nên việc lựa chọn sử dụng vị thuốc cũng khác nhau.
Thuốc bổ thận âm chủ yếu có những vị Thục địa, Hà thủ ô, Câu kỷ, Nữ trinh tử, Huyền sâm. Thục Địa đại bổ thận âm, sức bổ mạnh nhưng tính béo nhầy nặng. Công dụng của Hà thủ ô hơi giống với Thục địa, song ôn mà không táo, bổ mà không béo nhầy, đó là ưu điểm. Sức bổ của Nữ trinh tử kém hơn. Sức bổ âm của Câu kỷ tử mạnh hơn Nữ trinh tử, hay tư âm dưỡng mộc (can). Tác dụng chủ yếu của Huyền sâm là tư âm giáng hỏa. Đỗ Trọng, Ngưu tất, Thỏ ty tử bổ can thận, mạnh gân cốt. Đỗ Trọng thường cùng dùng với Ngưu tất, vì tính Ngưu tất dẫn thuốc đí xuống, khi lưng đau gối mỏi, hai chân bị tê liệt thì thường dùng.
Những vị thuốc có tác dụng bổ thận âm mà thiên về cố sáp là Sơn thù du, Hoàng tinh, Phúc bồn tử, Tang phiêu tiêu, tác dụng chủ yếu của chúng lại bổ thận, sáp tinh, giữ vững không để hoạt thoát (cố thoát)
Thạch hộc, Mạch đông, Thiên đông, Sinh địa hoàng đều có thể dưỡng âm, sinh tân dịch, thanh nhiệt. Thạch hộc dưỡng vị âm, hiệu lực sinh tân dịch mạnh. Thiên đông dưỡng phế âm mà thanh nhiệt. Mạch đông dưỡng phế âm, vị âm, sức sinh tân dịch mạnh hơn Thiên đông, nhưng sức thanh nhiệt thì không bằng Thiên đông. Sinh địa hoàng tư âm, lương huyết mà lui được hư nhiệt.
Biết giáp, Quy bản đều là thuốc tư âm giữ dương, tư thận âm mà giữ phù dương (dương bốc lên). Sức dưỡng âm của hai vị thuốc này thì Quy bản mạnh hơn, Miết giáp kém hơn. Miết giáp có thể dưỡng được âm, thanh nhiệt mà còn làm mềm được vật rắn (nhuyễn kiên). Quy bản thì chủ yếu là bổ âm.
Ngoài ra còn có một số vị thuốc bình bổ dưỡng âm như Bạch mộc nhĩ, Yến nhĩ, Đông trùng hạ thảo, Cáp sĩ ma, chẳng những dùng làm thuốc, mà còn có thể làm thức ăn.