Tên tiếng Hán: 五加皮中药
Tên dùng trong đơn thuốc: Ngũ gia bi, Nam ngũ gia bì.
Phần cho vào thuốc: vỏ rễ.
Bào chế: Bóc vỏ rửa sạch phơi khô trong râm, dùng sống hoặc rửa rượu rồi sao lên dùng.
Tính vị quy kinh: Ngũ gia bì vị cay, tính ôn. Vào hai kinh can thận.
Công dụng: Trừ phong thấp, khỏe gân cốt.
Chủ trị: Tán phong hàn thấp tý ở hạ tiêu, lưng đầu gối đau, cước khí chân teo nhũn và các chứng phong thấp ở bì phu.
Ứng dụng và phân biệt: Ngũ gia bì có hai loại, cho vào thuốc lấy Nam ngũ gia bì là tốt (có mùi thơm), Bắc ngũ gia bì có độc (không có mùi thơm).
Kiêng kỵ: Nếu không có chứng phong thấp và người âm hư hỏa vương thì cấm dùng.
Liều lượng: Một đồng cân năm phân đến bốn đồng cân.
Bài thuốc ví dụ: Bài Ngũ gia bì tửu (Thái bình thánh Huệ phương) chữa tiểu tiện són nhắt, đàn bà lạnh âm hộ, lưng đầu gối hay đau, cùng các chứng tê liệt co quắp.
Ngũ gia bì, Thục địa hoàng, Đan sâm, Đỗ trọng, Xà sàng tử, Can khương, Địa cốt bì, Thiên môn đông, Chung nhũ thạch, tán nhỏ, đựng vào túi lụa mới (còn gọi là lụa chưa hồ) ngâm vào rượu hai đêm, lọc trong, cho thêm đường phèn, mỗi lần uống một chén to, uống hơi âm ấm vào lúc đối và trước bữa ăn tối.
Tham khảo: Ngũ gia bì tuy không có công thuần bổ nhưng cũng không có hại là làm tổn thương chính khí. Gọi là ngũ gia bì tửu nên có thể uống được lâu dài. (Ở đây tác giả nói chữ tửu là rượu lại trùng với âm cửu phục là uống lâu. Vì chữ tửu và chữ cửu đọc âm Bắc kinh cùng như nhau là Ju (chiểu), đọc âm Quảng đông thì cùng vần nhưng khác âm; Tửu đọc là “chẩu” cửu đọc là “cẩu”. Tác giả vừa hướng dẫn người bệnh dùng thuốc vừa dùng chữ đúng với lô gích của việc dùng thuốc, hay nói cách khác, chơi chữ rất vui và rất đúng ND.)
Theo: Đông dược thiết yếu – Viện Nghiên Cứu Trung Y
Bộ Y tế nước Công hòa Nhân Dân Trung Hoa
Người dịch : Lương y Trần Văn Quảng
Hiệu đính : Lương y Vũ Xuân Quang
Trung Ương Hội Đông Y Việt Nam