Tên dung trong đơn thuốc: Tây qua, Tây qua thúy y, Tây qua sương.
Phần cho vào thuốc: Ruột dưa, vỏ dưa.
Bào chế: Nước dưa hấu không phải bào chế gì cả. Tây qua thúy y là gọt lấy lớp vỏ xanh ngoài quả dưa. Tây qua sương là khoét một lỗ nhỏ ở trên đầu quả dưa, cho Huyền minh phấn vào trong rồi lấy miếng dưa đã khoét ra đậy kín lại, treo ở chỗ thoáng gió, sau vài ngày mặt ngoài quả dưa tiết ra một lớp sương trắng, lấy đó mà dùng.
Tính vị quy kinh: Tây qua vị ngọt, nhạt, tính hàn. Vào bốn kinh: tâm, phế, tỳ, vị.
Công dụng: Chống nắng, chữa khát, lợi tiểu tiện.
Chủ trị: Thanh giải cảm nắng vào kinh Dương minh và bệnh nhiệt khát nước nhiều, phiền táo, dẫn nhiệt bài tiết theo đường tiểu tiện.
Ứng dụng và phân biệt: Nước cùi ruột dưa hấu chuyên thanh thử nhiệt (nắng nóng) ở phế vị có tên gọi là Thiên sinh Bạch hổ thang (bài bạch hổ thiên nhiên, không phải do người lập ra). Vỏ dưa hấu có thể giải được nóng ở vùng bì phu. Lớp sương trắng của quả dưa thối vào chữa họng sưng đau có hiệu quả.
Kiêng kỵ: Ăn nhiều tổn thương tỳ, trợ thấp, người có hàn thấp thì kiêng.
Liều lượng: Cùi ruột dưa ăn bao nhiêu là tùy ý. Vỏ dưa thì dùng từ hai đồng cân đến một lạng. Lớp sương trắng ngoài quả dưa làm thuốc thổi, mỗi lần dùng một ít.
Bài thuốc ví dụ: Bài Thanh lạc ẩm (Ôn bệnh điều biện phương) chữa chứng thử ôn vào kinh Thủ thái âm sau khi đã được phát hãn, chứng thử đã giảm bớt, song đầu con hơi căng mắt mờ nhìn không rõ, dư tà chưa giải hết.
Diềm lá sen tươi, Ngân hoa tươi, vỏ dưa hấu, hoa biển đậu tươi (đỗ ván), Vỏ quả mướp, Búp măng non tươi, cho hai bát nước sắc còn lấy một bát, ngày uống hai lần.
Tham khảo: Dưa hấu là thứ giải nắng rất hay, thường dùng trong bài thuốc chống nóng nắng mùa hạ.