Tên dùng trong đơn thuốc: Long xỉ, Thanh long xỉ.
Tên tiếng Hán: 龍 齿
Bào chế: Dùng sống giã nát vụn, hoặc nung lên dùng.
Tính vị quy kinh: Long xỉ vị sáp, tính bình, vào hai kinh tâm, can.
Công dụng: Yên thần minh ở tâm, ổn định hồn ở can (can tàng hồn, hồn thuộc về hoạt động tinh thần, can khí sơ tiết điều hòa mà tình chí bình thường).
Chủ trị: Chữa hồi hộp mất ngủ, sợ hãi điên cuồng và các chứng kính.
Ứng dụng và phân biệt: Long cốt và long xỉ đều là xương và răng của loài động vật có xương sống từ cổ đại đã hóa thạch, công dụng hay về trấn tĩnh, nhưng Long cốt kiêm cả khả năng chỉ hãn sáp tinh, còn Long xỉ chỉ dùng vào thuốc yên định thần và hồn.
Kiêng kỵ: Nếu do tâm hỏa vượng hoặc đờm mê tâm bào mà thần không yên thì cấm dùng.
Liều lượng: 1,5 đồng cân đến 5 đồng cân.
Bài thuốc ví dụ: Bài Long xỉ hoàn (Chứng trị chắn thằng phương) chữa đàn bà huyết khí bốc lên, tâm thần hoảng hốt sợ hãi, nằm ngủ không yên.
Long xỉ, Phục thần, Chu xa, Nhân sâm, Đương, quy, Thiên ma, Tần lang, Phòng phong, Can địa hoàng, phoi Tê giác, Viễn chí, Xạ hương, cùng tán nhỏ, trộn với mật làm viên như hạt ngô, không kể giờ giấc, uống với nước Bạc hà làm thang.
Tham khảo: Trên lâm sàng, khi dùng Long cốt cho vào thuốc thì nhiều hơn là dùng Long xỉ vả lại hiệu quả điều trị lại cao.
Theo: Đông dược thiết yếu – Viện Nghiên Cứu Trung Y
Bộ Y tế nước Công hòa Nhân Dân Trung Hoa
Người dịch : Lương y Trần Văn Quảng
Hiệu đính : Lương y Vũ Xuân Quang
Trung Ương Hội Đông Y Việt Nam