Thuốc trợ dương hay ôn bổ thận dương, tính vị của nó đều thuộc ôn nhiệt, nói chung thích hợp với các chứng liệt dương, tinh ra sớm, và hạ tiêu hư hàn. Phần này này bao gồm ba nội dung là tráng dương, ôn thận và bổ thận kiên cốt.
Trong thuốc tráng dương có Nhục thung dung, Hải cẩu thận và Lộc nhung, sức bổ mạnh hơn, về trợ dương thì chữa liệt dương bất lực, tinh lạnh không có con, công hiệu rất lớn. Nhục thung dung bổ dương kiêm dưỡng âm là vị thuốc bổ thận rất tốt. Hải cẩu thận tính rất nóng, là vị thuốc mạnh bổ thận cường dương. Lộc nhung là loại bằng huyết nhục cũng là vị thuốc quan trọng bổ mạnh, song tính thuốc hơi chậm, củng cố được dương khí, càng chữa được bệnh đau lưng sợ rét kéo dài. Ngoài ra, Tiên mao và Dâm dương hoắc có thể làm mạnh được thận dương, song chỉ có thể dùng tạm với người dục tính yếu (phòng sự kém), Dâm dương hoắc tính mạnh mà không thuần, càng ít dùng trên lâm sàng, chỉ có hiệu quả tốt với chứng tý hàn thấp dai dẳng lâu ngày.
Thuốc ôn thận ôn được hư hàn ở hạ tiêu, chữa lưng, đầu gối đau ê ẩm, chân mềm bủn nhủn, bụng dưới lạnh đau, như Ba Kích thiên, Dương nhục (thịt dê). Ba Kích thiên ôn nội hàn, còn có tác dụng phát tán, dùng cho người bị bệnh do hàn tà bên ngoài gây nên (ngoại hàn). Thịt dê là thứ ôn bổ của người bệnh dương hư về mùa đông. Lại còn Phá cố chỉ và Hồ đào, càng thu nạp được thận khí và dẹp yên được chứng hư suyễn do thận khí nghịch lên.
Thuốc bổ thận kiện cốt có Hổ cốt và Cốt toái bổ vì thận chủ về xương, cho nên hai vị thuốc này đã bổ thận lại kiện cốt (mạnh xương) Hổ cốt đuổi được phong tà, dẹp yên đau nhức, mạnh xương khỏe gân, Cốt toái bổ ôn thông được thận dương, làm liền xương gẫy tổn thương
Ngoài ra, Phụ tử và Nhục quế là thuốc hồi dương tráng dương có thể khử hàn cứu nghịch, xin xem chương thuốc khử hàn ở trên.