Tên tiếng Hán: 寒水石中药材
Tên dùng trong đơn thuốc: Hàn thủy thạch, Ngưng thủy thạch.
Bào chế: Lấy nước cốt tự nhiên (khống pha nước lã) của gừng sống nấu khô, tán bột để dùng.
Tính vị quy kinh: Hàn thủy thạch cay, mặn, tính hàn. Vào ba kinh: phế, vị, đại tràng.
Công dụng: Thanh thực hỏa ở phế, vị, giải ôn nhiệt thuộc kinh Dương minh.
Chủ trị: Chữa ôn tà, thử nhiệt nung nấu ở vị, cơ nóng táo khát, mình nóng như than hồng.
Ứng dụng và phân biệt: Trong việc thanh vị nhiệt, Thạch cao còn có cái hay là đi ra ngoài để giải biểu phát hãn. Cũng trong việc thanh vị nhiệt, Hàn thủy thạch còn có thể tả được cái nóng như lửa đốt ở trong da.
Kiêng kỵ: Tỳ vị hư hàn và không thực nhiệt thì cấm dùng.
Liều lượng: Một đồng cân năm phân đến bốn đồng cân.
Bài thuốc ví dụ: Bài Tam thạch thang (ôn bệnh điều biện phương) chữa thử ôn lan khắp tam tiêu, lưỡi hoạt hơi vàng, tà ở phần khí.
Hàn thủy thạch, Phi hoạt thạch (hoạt thạch thủy phi), Sinh thạch cao, Hạnh nhân, Trúc nhự, Ngân hoa, Kim chấp (kim chấp tức phẩn thanh – nước trong lấy từ phân người. Cách chế: Rải một lớp đất sét – hoàng thổ trên giấy lọc xốp bằng vỏ bẹ móc, dội nước phân hòa loãng qua lớp đất, lọc lấy nước trong, cho vào một cái ang sành mới, lấy bát đậy kín bịt chặt lại, chôn xuống đất sau một năm lấy lên, N.D.), Bạch thông thảo, cho vào năm bát nước, sắc còn hai bát, chia làm hai lần uống ấm.
Tham khảo: Chủ trị của Hàn thủy thạch với Thạch cao phần lớn giống nhau, chỉ khác nhau chút ít thôi, Các bài thuốc về đời Đường, đời Tống cho rằng Hàn thủy thạch tức là Thạch cao. Trong các bài thuốc của đời sau đã chia ra Hàn thủy thạch với Thạch cao. Thạch cao thì trong trắng cứng rắn, Hàn thủy thạch thì xốp mềm, tay có thể bóp vỡ được, cho vào nước là tan ra, ngoài hơi xanh đen, trong có đường vân nhỏ.
Theo: Đông dược thiết yếu – Viện Nghiên Cứu Trung Y
Bộ Y tế nước Công hòa Nhân Dân Trung Hoa
Người dịch : Lương y Trần Văn Quảng
Hiệu đính : Lương y Vũ Xuân Quang
Trung Ương Hội Đông Y Việt Nam