Tên tiếng Hán: 犀角
Tên trong đơn thuốc: Tê giác, Ô tê giác, Tê giác tiêm (đầu sừng con Tê ngưu),Tê giác phấn (bột sừng con Tê ngưu), Tê giác ma chấp (sừng con Tê ngưu mài lấy nước.
Phần cho vào thuốc: Sừng chỗ mũi con Tê ngưu.
Bào chế: Dũa sừng con tê ngưu thành bột hoặc thái thành phiến sử dụng, hoặc mài lấy nước cốt uống.
Tính vị quy kinh: Tê giác vị đắng, chua, hơi mặn, tính hàn.Vào ba kinh: tâm, can, vị.
Công dụng: Thanh dinh huyết, giải nhiệt độc.
Chủ trị: Chữa các chứng phát ban, sởi, mê man, nói lảm nhảm, huyết nhiệt đi bừa, gây ra thổ huyết, đổ máu cam, đi đại, tiểu tiện, ra máu, ứ huyết, trẻ em kinh sài co giật, gây bệnh do nhiệt độc.
Ứng dụng và phân biệt: Tê giác có phân biệt loại Tiêm la giác (ở Thái Lan) và Quảng giác. Tiêm la giác là tốt nhất, Quảng giác kém hơn. Màu đen nháy kèm nhẵn bóng là tốt, nhất là đầu nhọn của sừng có hiệu lực rất mạnh, cho nên còn gọi là ô tê giác (ô là đen).
Kiêng kỵ: Nếu không phải nhiệt tà vào phần huyết thì cấm dùng.
Liều lượng: Uống trong từ ba phân, đến tám phân, nếu là thang thuốc to có thể dùng từ một đồng cân đến ba đống cân. Loại Quảng giác dùng ba đồng cân đến năm đồng cân.
Bài thuốc ví dụ: Bài Tê giác Địa hoàng thang (Thiên kim phương) chữa thương hàn và ôn bệnh, nên phát hãn mà không phát hãn, bên trong ứ huyết tụ huyết, đổ máu cam, đại tiện ra phân đen, mặt đen, có thể tiêu được ứ huyết.
Tê giác, Sinh địa, Thược dược, Đan bì, cả bốn vị trên, cho nước vào sắc, chia ra làm mấy lần uống, hoặc đầu nhọn sừng tê ngưu không sắc với nước, mài riêng lấy nước hòa vào uốngvới thuốc.
Tham khảo: Các loại động vật khác hai sừng đều mọc đối ở cạnh hai tai. Chỉ có vị trí độc giác (một sừng) của tê ngưu lại mọc ở chính giữa trán thẳng với sống mũi, tuy cũng giống như hai cái sừng, song một to, một nhỏ,một trước, một sau chứ không thẳng hàng ngang như sừng khác.
Theo: Đông dược thiết yếu – Viện Nghiên Cứu Trung Y
Bộ Y tế nước Công hòa Nhân Dân Trung Hoa
Người dịch : Lương y Trần Văn Quảng
Hiệu đính : Lương y Vũ Xuân Quang
Trung Ương Hội Đông Y Việt Nam