Tên dùng trong đơn thuốc: Kinh lịch.
Phần cho vào thuốc: Nước cốt của rễ củ cây kinh.
Bào chế: Cắt lấy hơn một thước (một thước Trung quốc = 0,333 m) Gác lên trên hai hòn gạch, đốt lửa ở giữa, lấy bát hứng ở hai đầu đựng nước cốt chảy ra.
Tính vị quy kinh: Kinh lịch vị ngọt tính bình, Vào ba kinh phế, vị, đại tràng.
Công dụng: Trừ đờm rãi, thông kinh lạc.
Chủ trị: Chữa trúng phong mất tiếng, động kinh do đờm mê tâm khiếu chóng mặt hoa mắt, Bệnh do phong đàm ủng tắc trở trệ ở ngực ức, bao phủ tâm bào, đều có thể dùng được.
Ứng dụng và phân biệt: Kinh lịch và trúc lịch đều là loại lấy từ nước cốt chảy ra, cùng là thuốc hóa đàm hoạt đàm đi xuống. Song Trúc lịch phần nhiều dùng để hóa nhiệt đàm, Kinh lịch phần nhiều dùng để hóa hàn đàm, đều phải dùng nước gừng hỗ trợ để tăng thêm sức thuốc.
Kiêng kị: Nếu người không có đờm rãi mà biểu hiện thiên về hàn thì cấm dùng.
Liều lượng: Hai đến ba thìa cà phê, hòa với bốn đến năm giọt nước gừng mà uống.
Bài thuốc ví dụ: Chữa trúng phong cấm khẩu (Phạm uông phương)
Một vị kinh lịch, nuốt từng tý một, hoặc lấy một nắm rễ của cây Mẫu kinh, cho vào nước sắc lên rồi uống.
Theo: Đông dược thiết yếu – Viện Nghiên Cứu Trung Y
Bộ Y tế nước Công hòa Nhân Dân Trung Hoa
Người dịch : Lương y Trần Văn Quảng
Hiệu đính : Lương y Vũ Xuân Quang
Trung Ương Hội Đông Y Việt Nam