THUỐC THẤM THẤP TRỤC THỦY

Cứ những vị thuốc nào có thể thấm lợi được thủy thấp, thông lợi tiểu tiện và trục mạnh được thủy ẩm, làm cho nước bài tiết ra ngoài bằng đường tiểu tiện và đại tiện, thì gọi là thuốc thấm thấp trục thủy.

Khi sự vận hóa nước ở trong cơ thể người ta không bình thường, tụ lại là đờm, tán ra là thấp, đình trệ lại là nước. Thủy thấp không bài tiết ra ngoài cơ thể, mà ở lại trong cơ thể, rồi sau dần dần biểu hiện các chứng phù thũng, đầy trướng, suyên ẩu, bí đái (long bế). Thủy thấp tích lại ở trong, nhẹ thì có thể dùng các vị Phục linh, Trư linh, Trạch tả, Hoạt thạch để thông lợi tiểu tiện; nặng thì có thể dùng các vị Cam toại, Ngoan hoa, Đại kích để phá thủy, công kiên, tả mạnh thủy thấp.

Những vị thuốc này chia ra làm hai loại: thấm thấp và trục thủy. Dược tính của những vị thuốc thấm thấp hoãn hòa, tính vị phần nhiều ngọt, nhạt, lạnh, có tác dụng lợi tiểu tiện thấm thấp. Dược tính của những vị thuốc trục thủy rất mạnh, tính vị phần nhiều cay ôn hoặc đắng lạnh. Thích hợp với các chứng thực của thủy thũng, đờm ẩm.

Thuốc thấm thấp và trục thủy đều dễ tổn thương, âm dịch, cho nên cần phải chú ý khi dùng để chữa cho người có bệnh âm hư. Dược tính của thuốc trục thủy rất mạnh, không được sử dụng quá liều lượng, chỉ có thể dùng cho người có cơ thể khỏe chắc, mạch tượng trăm thực. Người có chứng hư và suy nhược thì cấm dùng. Đại kích, Ngoan hoa, Cam toại, Thương lục có phản ứng phụ làm trụy thai cho nên đàn bà có mang kiêng dùng. Trong thuốc trục thủy ngoài Thương lục ra, còn lại đều tương phản với Cam thảo, khi phối ngũ cần chú ý.

Trong thuốc thấm thấp đã nói ở trên, Phục linh bì, Đại phúc bì hành thủy là thủy ở vùng da còn Chư linh, Phục linh, Xa tiền tử, Trạch tả lợi thủy là thủy ở trong tạng phủ. Trong đó tác dụng của Chư linh thiên về vị, Phục linh thiên về tỳ, Xa tiền chuyên hành thủy ở bàng quang, Trạch tả lợi thận thủy sức mạnh hơn Thông thảo, Phòng kỷ thông thấp nhiệt ở kinh lạc, Mộc thông bài tiết thấp nhiệt ở bàng quang, Ý dĩ kiện tỳ lợi thấp, Hoạt thạch thì thanh nhiệt để lợi thấp, Thạch vy chuyên trị huyết lâm, Hải kim sa có thể thông ngũ lâm (Thạch lâm, khí lâm, cao lâm, lao lâm, huyết lâm) mà thông thạch lâm (đi đái buốt ra sỏi) càng tốt, Đông quỳ tử lợi thủy mà không tổn thương đến thai, sức thấm thấp của Đăng thảo kém nhất. Đó là những nét khác nhau trong cái cùng giống nhau.

Thuốc trục thủy tuy đều có thể bài tiết nước theo đường đại tiện song sức của mỗi vị cũng khác nhau. Như Cam toại, Ngoan hoa, Đại kích là mạnh nhất, Thương lục kém hơn. Khiên ngưu tử lại còn kém hơn nữa. Khiên ngưu tử trục nước ở hạ tiêu Thiên kim tử trục nước ở bụng, Đinh lịch tử trục nước ở phế, Đại kích bài tiết thủy thấp ở tạng phủ, Cam toại bài tiết thủy thấp ở đường kinh, Ngoan hoa bài tiết thủy ẩm ở phế nang. Mỗi vị đều có cái riêng là thiên về bệnh nào và sở trường của vị đó. Phải nắm vững được cái chuyên chữa và sở trường của mỗi vị thuốc, thì mới vận dụng được theo ý muốn trên lâm sàng.

 

Leave a Reply